KHẢ NĂNG NHÌN XUYÊN THẤU
Công năng thấu thị (clairvoyance) chỉ khả năng nhìn một đồ vật bị che khuất hoặc được ngăn cách bằng một bức tường.
Trong các thí nghiệm về khả năng này, kinh điển là chuỗi thí nghiệm Pearce - Pratt . Năm 1934, Tiến sĩ J.B. Rhine thuộc Đại học Duke ở Hoa Kỳ đã thiết kế 5 bộ thẻ được gọi là Thẻ Trắc nghiệm Siêu cảm ( Extrasensory Testing Cards ). Trên mỗi bộ thẻ là một hình vẽ đơn giản: hình tròn , hình vuông , hình chữ thập , hình sóng nước và hình ngôi sao. Bằng việc sử dụng 5 bộ thẻ này, ông và cộng sự-Tiến sĩ J.G. Pratt , đã tiến hành một chuỗi thí nghiệm trên một học sinh tên Pearce - người tuyên bố là có công năng thấu thị . Các thí nghiệm được tiến hành 34 lần trong khoảng thời gian từ tháng 8 năm 1933 đến tháng 3 năm 1934. Năm loại thẻ (tổng cộng 25 thẻ) đã được sử dụng vào mỗi lần thí nghiệm .
Người được thí nghiệm ngồi trong một căn phòng nhỏ tại thư viện Đại học Duke , trong khi cộng sự Pratt ngồi trước một chiếc bàn tòa nhà cách nơi mà ông có thể thấy Pearce từ 100-200 mét. Trước khi thí nghiệm bắt đầu, Pratt trộn một cách ngẫu nhiên những tấm thẻ và đặt chúng ở phía bên phải chiếc bàn, với mặt thẻ có hình úp xuống . Một cuốn sách cũng được đặt ở giữa chiếc bàn. Ngay khi thí nghiệm bắt đầu, Pratt chọn một tấm thẻ bằng tay phải và đặt nó lên cuốn sách với mặt có hình úp xuống. Cùng lúc đó , Pearce cố gắng đoán xem hình trên chiếc thẻ là gì. Một phút sau, Pratt dùng tay trái để chuyển chiếc thẻ từ cuốn sách sang phía bên trái của chiếc bàn với mặt thẻ úp xuống , và rồi chọn tấm thẻ tiếp theo bằng tay phải . Với mỗi chiếc thẻ được chọn trong vòng một phút, quá trình này tiếp tục cho tới khi 25 chiếc thẻ được lấy hết. Những chiếc thẻ luôn được đảm bảo là úp xuống trong toàn bộ quá trình , và cả Pearce và Pratt đều không thể nhìn thấy các hình vẽ . Sau khi hoàn thành lượt đầu tiên của thí nghiệm, Pearce sẽ ghi lại đáp án vào một tờ giấy, gói kín trong một phong bì và đưa cho Tiến sĩ Rhine . Pratt cũng ghi lại đáp án mà ông cố gắng đoán rồi đưa riêng nó cho Tiến sĩ Rhine. Tiến sĩ Rhine mở cả hai phong bì và sau đó tiến hành phân tích kết quả thống kê.
Pratt và Pearce cũng so sánh kết quả thống kê của Tiến sĩ Rhine với đáp án mà họ tự lưu để xem có sai sót nào không. Phân tích thống kê cho thấy trong 74 lượt thí nghiệm với 1.850 chiếc thẻ được chọn , độ chính xác trong đáp án của Pearce là hơn 30 % . Điều này vượt qua xác suất thống kê khi đoán ngẫu nhiên ( chỉ là 20 % ), và mức độ có ý nghĩa lên tới 10-20. Nói thẳng là , đoán ngẫu nhiên mà không có công năng thấu thị thì không bao giờ đạt chính xác đến 30 % ( Rhine , 1934 , 1937 ) . Thí nghiệm này đã được công nhận rộng rãi trong lĩnh vực tâm lý học và Tiến sĩ Rhine cũng được ca ngợi như là cha đẻ của bộ môn cận tâm lý đương đại . Nhiều nhà khoa học sau đó đã làm lại thí nghiệm này và cũng thu được kết quả tương tự . Điều này đã chứng thực sự tồn tại khách quan năng thấu thị. ( Russell , 1943 ) .
Tại sao Pearce có thể thấy được vật thể được che khuất từ một cự ly xa như vậy ? Vấn đề này, điều mà các nhà khoa học nghĩ rằng thần bí và khó giải thích , có thể được hiểu một cách đơn giản bởi giới tu luyện.
Họ cho rằng ở bộ phận phía trước thể tùng quả (pineal body) của cơ thể người đã được trang bị kết cấu hoàn chỉnh của một con
mắt người , và y học hiện đại gọi nó là một con mắt thoái hóa . Trên trán người
, ở giữa hai lông mày hơi chếch lên trên một chút , có một đường thông kết nối
với con mắt này , con mắt ở phía trước thể tùng quả . Nếu một người có thể nhìn
trực tiếp bằng con mắt này thông qua đường thông thay vì nhìn bằng con mắt thịt, thì người ấy có thể có sẵn lực xuyên thấu , thậm chí nhìn được những sự vật
mà mắt thường nhìn không thấy . Đây là điều mà giới tu luyện gọi là “ thiên mục
” , hay con mắt thứ ba . Rất có thể Pearce đã dùng thiên mục để nhìn những chiếc
thẻ kia. Trong trường hợp này, sẽ không có gì là thần bí khi anh có thể có lực
xuyên thấu như vậy .
Facebook: https://www.facebook.com/gockhampha1728
Youtube: https://www.youtube.com/channel/UClLA4EKzAZMijYt2RmvozBg
Nhận xét
Đăng nhận xét