Chuyển đến nội dung chính

SAU ĐẠI HỒNG THỦY CHÚNG TA LÀ CHỦNG TỘC NGƯỜI THỨ 5 TRÊN TRÁI ĐẤT

CHỦNG TỘC NGƯỜI ĐÃ TỪNG TỒN TẠI TRÊN TRÁI ĐẤT

Chắc hẳn bạn đã nghe qua lục địa Át-lan-tic bị chìm xuống đáy biển hơn tám trăm ngàn năm trước. Thực tế đó là một câu chuyện hư cấu. Nhưng nếu nó thật sự có thật, và rằng trước chúng ta đã tồn tại nền văn minh con người khác, không chỉ một mà nhiều nền văn minh thì sao? Trong các thư tịch, văn tự cổ, kinh phật đều có những thông tin tương tự nhau về những bậc cổ nhân đến từ các nền văn minh cao cấp hơn chúng ta. Nếu như không có lửa thì làm sao có khói, chúng ta có nên nghiêm túc tìm hiểu về nó? Liệu những gì khoa học đã khám phá cho đến thời điểm hiện tại có thực sự chính xác không? Con người xuất hiện sau thời đại khủng long? Chúng ta tiến hóa từ loài vượn?...

Trong thư tịch cổ, khái niệm “chủng tộc loài người” được hiểu không phải là các dân tộc mà là các nền văn minh. Chẳng hạn chủng tộc thứ Nhất đó là nền văn minh của những con người trên Trái Đất. Trước chúng ta, trên trái đất có bốn chủng tộc người. Chủng tộc ta là thứ Năm. Sự sống trên trái đất xuất hiện do vật chất cô đặc mấy triệu năm về trước. Con người, động vật và thực vật xuất hiện đồng thời. Chủng tộc sau có nguồn gốc từ chủng tộc trước.



Chủng tộc người đầu tiên: Thiên thần

Chủng tộc thứ nhất gọi là “tự sinh”, đã xuất hiện trên trái đất dưới dạng những thể nhẹ nhàng do thế giới tâm linh, tức thế giới của năng lượng tinh thần cô đặc. Đó là những người giống như thiên thần, có thể dễ dàng đi qua tường và các vật rắn khác. Trong họ như các hình hài không xương thịt tự phát sáng như ánh trăng và có chiều cao 40-50 mét. Vật thể mềm mại nguyên sinh của con người thuộc chủng tộc thứ Nhất được cấu tạo không bằng thứ vật chất như của người trần mắt thịt chúng ta. Họ là những người một mắt; chức năng con mắt duy nhất này lại thuộc cái tương tự như con mắt thứ ba, đảm nhiệm việc liên hệ từ xa với thế giới xung quanh và Trường thông tin toàn thể. Người chủng tộc Đầu tiên sinh sản vô tính, bằng cách phân chia và đâm chổi. Họ không có ngôn ngữ, giao tiếp bằng cách truyền ý nghĩ và có thể sống ở mọi nhiệt độ.

Chủng tộc thứ Hai: Người không xương

Những người này cũng giống “ma”, nhưng đặc hơn chủng tộc thứ Nhất. Họ cũng chỉ có một mắt và giao tiếp bằng cách truyền ý nghĩ. Người chủng tộc thứ Hai vàng óng ánh, sinh sản bằng cách đâm chồi và hình thành bào tử, nhưng cuối giai đoạn sống của chủng tộc thứ Hai xuất hiện người ái nam, ái nữ tức người đàn ông và người đàn bà ở trong cùng một thân thể.

Vậy là hai chủng tộc đầu tiên (người một mắt), chỉ có cái mà ta gọi là con mắt thứ ba và chỉ sử dụng mỗi cái đó trong cuộc sống.

Chủng tộc người thứ Ba: Lê-mu-ri-a

Chủng tộc người Lê-mu-ri chia thành Lêmuri sơ kỳ và Lêmuri hậu kì. Người Lêmuri sơ kỳ cao đến 20 mét và thể xác của họ đặc hơn nhiều nên không thể gọi như ma được nữa, họ có xương. Người lưỡng giới này tích lũy dần các dấu hiệu nam tính, trường hợp khác là dấu hiệu nữ tính. Kết quả có sự phân chia giới và xuất hiện sinh sản sinh dục. Người Lêmuri có bốn tay, hai mắt ở phía trước, con mắt thứ ba ở đằng sau như thể họ có hai bộ mặt vậy. Hai tay “phục dịch” phần trước thân thể, hai tay “phục dịch” phần sau. Hai con mắt phía trước có chức năng thị giác, mắt sau chủ yếu là thị giác tinh thần. Họ có màu vàng óng ánh. Giao tiếp bằng cách truyền ý nghĩ. Lêmuri hậu kỳ hay còn gọi là Lêmuri-Át lan là những người phát triển cao hơn cả trên trái đất, có trình độ công nghệ rất cao. Chiều cao người Lêmuri hậu kỳ là 7-8 mét, có hai mắt và hai tay. Con mắt thứ ba tụt vào trong sọ. Nước da có màu vàng hoặc đỏ.

Nền văn minh của người Lê-mu-ri xuất hiện và phát triển nhiều triệu năm về trước trên cơ sở tri thức của Không gian thông tin toàn thể. Người Lê-mu-ri đã sử dụng kiến thức của Cõi kia – hình thái sự sống trong thế giới tế vi. Nền văn minh của người Lê-mu-ri có thời kỳ phát triển không có chiến tranh lâu dài nhất trên trái đất vì thế đã đạt tầm mức cao nhất. Tuy nhiên, trong lòng nền văn minh đó, vẫn có những mâu thuẫn phát triển thành cuộc chiến tranh, trong thời gian chiến sự đã sử dụng năng lượng của thế giới tế vi. Họ đã phạm một tội nghiêm trọng - tri thức của Cõi kia được sử dụng không phải vào công việc sáng tạo mà là tàn phá.

Nhìn thấy dấu hiệu thảm họa toàn cầu, những người Lê-mu-ri phát triển cao về mặt tâm linh bỏ vào hang động nhập xô-ma-chi (thiền định sâu- về phần này chúng ta sẽ tìm hiểu rõ hơn trong những video sau), và tổ chức nên Quỹ gen nhân loại. Những người xuất chúng, có khả năng phi vật chất hóa và vật chất hóa thân thể, đã tổ chức nền văn minh kỹ thuật gen dưới mặt đất, để gìn giữ và phát triển những thành tựu kỹ thuật của nền văn minh Lê-mu-ri đồng thời bảo vệ Quỹ gen nhân loại. Họ biết cách tự tái sinh các tế bào cơ thể, vì thế đã trở nên bất tử.

Chủng tộc thứ Tư: Át-lan-tic

Sau thảm họa toàn cầu hủy diệt nền văn minh Lê-mu-ri-a, một chủng tộc người mới xuất hiện đó là chủng tộc thứ Tư- At-lan-tic.

Khí hậu thời đó rất ấm và ẩm, Trái Đất gồm toàn đảo. Thực vật thì khác hẳn, nhiều cây cối mọc dưới nước, bầu trời màu đỏ. Người Át-Lan có hai mắt thể chất, còn con mắt thứ ba nằm sâu trong sọ, nhưng hoạt động tốt. Họ có hai tay, cao 3-4 mét, nhưng đến cuối giai đoạn sinh tồn của người Át-Lan họ nhỏ đi. Một bộ phận người Át-Lan có màu da vàng, một bộ phận màu đen, một bộ phận nâu và một bộ phận màu đỏ. Theo thông tin của Lốp-xăng Ram-pa (trong tác phẩm "Con mắt thứ ba”, 1994) mô tả chuyện ông ta vào động xô-ma-chi. Ông viết: “Trước mặt tôi là ba thân thể khỏa thân đang nằm. Hai đàn ông và một đàn bà. Thân thể họ to lớn! Người đàn bà trên 3 mét, còn người đàn ông to lớn nhất không dưới 5 mét. Đầu to, múp dần về phía đỉnh đầu thành hình nón, xương hàm không phẳng, miệng nhỏ và môi mỏng, mũi họ dài và nhỏ, hai mắt sâu. Không thể nghĩ đây là những xác chết, có cảm giác họ đang ngủ”. Lốp-xăng Ram-pa mô tả ai vậy? Phải chăng, ông ta đang mô tả người Át-lan đang trong trạng thái xô-ma-chi. Liệu có thể coi đó là thông tin nghiêm chỉnh được không?

Trong thư tịch có những lời chỉ dẫn rằng Phật là người Át-lan. Trong phần mô tả ngoại hình Phật có nhiều dấu hiệu chứng tỏ thích nghi của cơ thể ngài với điều kiện sống nửa dưới nước: hai chân giống chân chèo, giữa các ngón có màng, lồng ngực to...  Có cảm tưởng rằng sự tiến hóa của con người trên trái đất đã diễn ra theo cách chuyển dần từ đời sống nửa trên cạn nửa dưới nước lên hẳn trên cạn.

Trên cơ sở các kết quả nghiên cứu đó, có thể kết luận rằng, người Át-lan cũng như người Lê-mu-ri có những dấu hiệu rõ ràng, chứng tỏ họ đã có đời sống nửa dưới nước. Nhưng khác với người Lê-mu-ri, ở người Át - lan xuất hiện nhiều hơn các dấu hiệu là đặc điểm của lối sống trên cạn: mũi hình xoắn trở thành mũi thẳng bình thường, không còn khe hở dọc giữa mũi và mồm với hai mang. Đặc trưng hộp sọ có kích cỡ lớn của người Át-lan (cũng như người Lê-mu-ri) chứng tỏ cả não lẫn con mắt thứ ba nằm trong khoang sọ đều phát triển. Từ đó suy ra người Át lan cũng như người Lê-mu-ri là những người có trí lực cao, họ thường sử dụng sức mạnh của con mắt thứ ba để giải quyết các tình huống trong đời sống.

Khi tầm mức tâm linh của người Át-lan khá cao và một số người Át-lan bắt đầu bổ sung Quỹ gen nhân loại, tiếp nhận kinh nghiệm bằng cách nhập vào Trường thông tin toàn thể. Người Lê-mu-ri bắt đầu tiết lộ cho họ biết tri thức cổ xưa. Dựa trên các tri thức đó, nền văn minh của người Át-lan tiến bộ nhanh. Họ biết thôi miên từ xa, truyền ý nghĩ qua khoảng cách, có thể tác động lên lực hấp dẫn, có các thiết bị bay, xây dựng các ngẫu tượng bằng đá trên đảo Pát-khi, kim tự tháp Ai Cập và nhiều đài kỷ niệm thời cổ đại thần bí khác. Đó là một trong các nền văn minh phát triển nhất trên trái đất. Nhưng tiếc thay nến văn minh đó đã tích tụ năng lượng tâm thần tiêu cực. Vào các thời kỳ cuối cư dân Atlantis phần lớn là người Át-Lan da vàng và da đen, họ đánh nhau thường xuyên. Và họ cũng lại giải quyết những mâu thuẫn bằng biện pháp quân sự. Tri thức của Cõi kia, một lần nữa bị sử dụng vào việc ác, tội đó đã dẫn đến thảm họa toàn cầu. Trái đất thay đổi trục quay, một đợt sóng biển khổng lồ hay còn gọi là đại hồng thủy cuốn trôi tất các đô thị và dìm chết loài người. Nền văn minh Át-lan đã bị chìm xuống đáy biển.

Chủng tộc người thứ Năm: chủng tộc con người hiện nay.

Vì hai tội từ 2 nền văn minh trước, Trí tối thượng đã áp dụng một nguyên tắc đối với chủng tộc thứ Năm (nền văn minh chúng ta) đó là “Hãy tự thể hiện mình đi”, kết quả là tri thức của Cõi kia bị phong tỏa. Người Lê-mu-ri đã sử dụng các bậc tiên tri xuất thân từ Quỹ gen nhân loại để hướng sự phát triển của nền văn minh chúng ta theo con đường tiến bộ. Được biết các bậc tiên tri đó được nhắc tới như Đức Phật trong kinh Phật, Chúa Jesu trong kinh Thánh…

Khác với người Át-lan, con mắt thứ ba của chúng ta hoàn toàn không còn chức năng gì và vướng phải nguyên tắc không thể tự tiếp cận với Không gian thông tin toàn thể và không thể sử dụng tri thức của Cõi kia. Chúng ta hoàn toàn phụ thuộc vào Sam-ba-la và A-gát-chi. Họ truyền cho chúng ta bao nhiêu kiến thức, thì chúng ta có bấy nhiêu. Ở người chủng tộc thứ Tư (người Át-lan) con mắt thứ ba tụt vào trong sọ nhưng chức năng vẫn còn. Đến chủng tộc thứ Năm (chúng ta), con mắt thứ ba còn lại là cơ quan thô sơ gọi là đấu xương. Nhưng có xu hướng là chủng tộc chúng ta lại phát triển con mắt thứ ba. Người Át-lan khi cảm thấy con mắt thứ ba thoái hoá đã cố kích thích nhân tạo nó. Còn chúng ta bây giờ cũng có trường lớp dạy tham thiền, mà như chúng ta biết, chính là để phát triển chức năng của con mắt thứ ba. Các nhà giải phẫu thấy rằng, trong quá trình phát triển phôi, con mắt thứ ba đã hình thành theo đúng kiểu con mắt.

Chủng tộc chúng ta, trong thư tịch thần bí gọi là chủng tộc A-ri-ăng. Về ngoại hình, dĩ nhiên chúng ta biết mình trông như thế nào. Tuy vậy, sau khi nghiên cứu các tư liệu về đề tài này, đã cho biết: người sơ kỳ của chủng tộc thứ Năm sinh sống vào giai đoạn Át-lan-tích tiêu vong cách đây gần 850.000 năm, có tầm vóc cao hơn nhiều, phải đến 3-4 mét. Chiều cao con người nhỏ dần, thấp nhất ở thế kỷ X - XVIII.

Chủng tộc ta xuất hiện khi vẫn còn người Át-lan hậu kì. Một bộ phận lớn chủng tộc thứ Năm trở nên hoang dã và không thể sử dụng kinh nghiệm của người Át-lan để tự phát triển. Điều đó có thể lí giải vì sao trên Trái Đất hiện nay có không ít bộ lạc man rợ sống hoang dã gần với loài vượn hơn người. Nếu điều đó đúng, phải chăng học thuyết tiến hóa Đác-uyn đã đi ngược? Và rằng loài vượn cổ đã tiến hóa từ những bộ phận người hoang dã trước đây?

 



Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

NHÓM MÁU BOMBAY QUÝ HIẾM NHẤT THẾ GIỚI, CHỈ CHIẾM 0.0004% DÂN SỐ

AI ĐÃ XÂY KIM TỬ THÁP

TOP 10: ĐỘNG VẬT NGUY HIỂM NHẤT THẾ GIỚI ĐỐI VỚI CON NGƯỜI