Chuyển đến nội dung chính

BAO TỰ - NỤ CƯỜI ĐÁNH MẤT GIANG SƠ

 

Từ cổ chí kim, cả Đông lẫn Tây đều chứng kiến rất nhiều câu chuyện lịch sử, về những người đàn ông vì sắc đẹp mà huynh đệ tương tàn, vì sắc đẹp mà mất cả giang sơn: Đồng Trác và Lữ Bố chém nhau vì Điêu Thuyền; Ngô Phù Sai mất nước vì Tây Thi; Đường Minh Họa suýt mất ngôi báu vì Dương Qúy Phi…Trong đó không thể không nhắc đến Bao Tự, vì một nụ cười của nàng Chu U Vương đã làm mất cả giang sơn vào tay quân Khuyển Nhung. Mời mọi người cùng theo dõi câu chuyện lịch sử thú vị này nhé.

 


Sau khi Chu Võ vương Cơ Phát khởi binh tiêu diệt Trụ vương đã kiến lập nên chế độ mới, trở thành một triều đại an thịnh và phồn vinh. Nhưng trải qua mấy đời, thì thế nước dần dần suy đồi, hầu như không có một nhân tài nào kiệt xuất đứng ra phò tá cho các vua nhà Chu. Bá quan văn võ chỉ toàn bọn vô tài bất tướng, thi nhau theo gương nhà vua ăn chơi, hưởng lạc. Tiếp đến thời Tuyên vương lại càng hủ bại bởi vì không những đam mê hưởng lạc mà còn chẳng màng đến chính sự, mặc cho bọn quần thần dưới quyền lộng hành hà hiếp dân đen.

Các chư hầu dù vẫn nhớ đến ân nghĩa phong hầu cấp đất của nhà Chu, theo lệ cũ hàng năm vẫn tiến cống nhưng đa số đều ngấm ngầm phẫn uất bởi vì, nhà Chu mỗi năm lại đòi hỏi tăng thêm, để có đủ chi dụng cho việc xa hoa hưởng lạc. Dù là hôn quân mê mụi nhưng Tuyên vương cũng biết lòng người không phục nên trong lòng rất lo lắng, ăn chơi trong lo sợ. Vừa hưởng lạc xa xỉ, vừa tăng cường binh lực để trấn áp mọi sự chống đối. Với hy vọng quyền lực của mình sẽ không một chư hầu nào dám có ý nghĩ xâm phạm đến nhà Chu. Nhưng, nước Khuyển Nhung cho rằng đây là cơ hội tốt nhất để thống nhất Trung nguyên nên ồ ạt kéo binh xâm phạm biên giới. Quân tướng nhà Chu tuy đông chẳng kém nhưng lại bất tài, chỉ giỏi ăn chơi nên thua liên tiếp mấy trận liền.

Nghe tin dữ, Tuyên vương vội triều bá quan văn võ đến thương thảo kế sách. Đa số đại thần từ trước đến nay nhờ vào nịnh bợ mà tiến thân, không hề có thực tài nên đồng thanh tâu: Sở dĩ Khuyển Nhung thắng trận là vì dồn hết lực lượng tấn công, trong khi đó chúng ta phải bảo vệ suốt một miền biên giới quá dài. Chỉ cần ban lệnh trưng dụng thêm quan binh là thừa đủ tiêu diệt Khuyển Nhung như trở bàn tay.

Sau khi nghe chiến lược của các quân sư quạt mo thì Tuyên vương rất hài lòng, lập tức xuống chiếu tuần tu đất Thái Nguyên, để kiểm điểm trai tráng trước khi quyết định số lượng quân binh sẽ được tăng cường. Khi việc xong, trên đường trở về gần đến Cảo Kinh thì chợt nghe đám trẻ con vỗ tay cùng nhau hát đồng dao:

Thỏ mọc thì ác phải tà.

Giang hồ ky phúc ấy là mất Chu.

Trong lòng thì đang sẵn mối lo, mà lại nghe thêm câu đồng dao ấy thì vua hết sức giận dữ, lập tức truyền lệnh truy bắt những đứa trẻ đó để tra hỏi. Nếu không khai ra ai là người đã dạy bọn chúng hát, thì sẽ bị chém đầu. Bọn trẻ sợ hãi nói rằng 3 ngày trước có một đứa trẻ áo đỏ, không biết từ đâu đến dạy bọn chúng hát. Sau khi dạy xong thì đi đâu mất. Bọn trẻ hát vậy thôi chứ không hiểu nghĩa của bài đồng dao đó. Tuyên vương biết là bọn trẻ nói thật nên đã truyền tha cho chúng. Về triều, nhà vua vẫn ám ảnh câu hát đó nên hạ lệnh: nếu còn nghe ai hát lập tức sẽ khép vào tội phản nghịch, chém đầu cả nhà.

Thật ra, nhà vua không hiểu rõ lắm ý nghĩa sâu xa của câu đồng dao đó, nên triệu hai đại thần trụ cột, có học vấn rộng rãi là Đại Tông bá Chiêu Hổ và Thái sử Bá Dương Phụ vào cung hỏi cho rõ. Được biết, Giang là tên cây dâu mọc trên núi, giang hồ tức là lấy cây gỗ dâu ấy làm thành cánh cung. Ky là một loại cỏ có tính dai bền, còn phúc là cái bao đựng tên. Như vậy Ky phúc là lấy cỏ ky làm bao đựng tên, tức báo trước nước sắp có họa đao binh. Lại thêm câu đồng dao do đứa trẻ áo đỏ bày ra. Mà sắc đỏ thuộc Hỏa tinh. Tuyên vương hết sức kinh sợ vì mỗi khi Hỏa tinh xuất hiện thì chắc chắn không thể tránh khỏi nạn binh đao. Nhưng họa lớn không phải bắt nguồn từ cung tên bởi vì câu “Thỏ mọc thì ác phải tà”, có ý nghĩa âm thịnh dương suy, tất hồng nhan họa thủy. Hai đại thần khuyên nhà vua nên tu nhân tích đức, làm điều lành, giúp dân no ấm thì họa sẽ tự tiêu tan.

Điềm báo không chỉ có vậy, Khương hậu vội đến tâu với vua rằng trong cung bất ngờ có xảy ra chuyện quái dị. Một bà lão cung nhân của tiên đế ngày trước, nay đã gần 50 tuổi, mang thai hơn 38 năm mà không thấy dấu hiệu gì sắp sinh nở. Chẳng biết vì sao hôm qua chuyển dạ sinh được 1 đứa con gái. Vì là vật quái lạ nên hậu đã sai người mang ra Thanh Thủy vứt đi.

Vua truyền gọi cung nữ già ấy vào hỏi han thêm. Cung nữ già tâu rằng vào đời nhà Hạ vua Kiệt, một ngày kia có một con rồng bay xuống sân cung cấm, miệng nhả nước dãi. Thái sử bói được một quẻ rất tốt, cho rằng rồng giáng hạ là điềm lành nên thu giữ lấy nước dãi của nó để làm vật quốc bảo. Vua Hạ Kiệt nghe theo, truyền lấy một cái hộp bằng vàng đựng lấy cất vào kho. Sau khi lấy xong thì trời sấm chớp mưa to, con rồng theo gió bay đi mất.

Đến đời của Lệ vương, bất ngờ chiếc hộp phát ra ánh hào quang nên tiên vương sai người mang đến nhưng bất cẩn làm rơi xuống đất. Nước dãi rồng chảy xuống sân biến thành con giải nhỏ chạy vào hậu cung. Vô tình bị cung nữ già đụng trúng, nó lập tức biến mất, khi ấy bà mới 12 tuổi. Sau đó, người cung nữ hoài thai, trải qua 38 năm vẫn không thấy chuyển dạ.

Cho dù hoàng hậu đã cho người vứt đứa bé đi nhưng nhà vua vẫn không an tâm, cho quân lính đi dọc bờ sông kiểm tra xem đứa bé gái đã chết chưa. Nhưng vì không tìm thấy xác, nên nhà vua vẫn lo lắng triệu Thái sử Bá Dương Phụ vào. Ông bói được một quẻ cho biết: yêu khí tuy đã rời khỏi cung nhưng chưa bị tiêu diệt, vẫn phải cẩn trọng trong việc cung tên. Tuyên vương lặp tức xuống lệnh: trong phạm vi nội ngoại kinh đô, bất cứ ai tìm được 1 bé gái sơ sinh, dù sống hay chết đều được trọng thưởng. Ai nuôi trẻ sơ sinh gái không có nguồn gốc sẽ bị chém đầu toàn gia. Đồng thời ra lệnh cấm tuyệt đối chế tạo hay buôn bán cung làm bằng gỗ dâu núi hoặc bao đựng làm bằng cỏ ky, trái lệnh chém đầu không cần xét sử. Tiếc rằng lệnh quá gấp nên đa số dân chúng ngoại thành không hề biết đến lệnh cấm này. Vì vậy có đôi vợ chồng ở gần chân núi vẫn làm trái lệnh cấm và còn đem vào thành bán. Đến cửa thành thì bị quan quân phát hiện, bắt trói nhưng người chồng đã thoát được. Họ nghĩ vừa có cung tên vừa có phụ nữ thì chẳng còn gì lo lắng. Tuyên vương cả mừng, lặp tức truyền lệnh đốt bỏ số cung và bao tên, đồng thời chém đầu người đàn bà. Còn về phần người đàn ông kia, sau khi nghe tin vợ chết oan ức vì đứa trẻ sơ sinh nào đó, ông nhất thời không cầm được cảm xúc định đi đến dòng sông Thanh Thủy để tự vẫn. Chẳng ngờ bắt gặp được đứa bé, nghĩ rằng nó có thể là người mà hôn quân tìm giết nên đã nuôi, vừa làm phúc vừa trả mối hận cho người vợ. Nhưng vì lệnh cấm của triều đình nên ông mang đứa bé qua nước Bao và đặt tên là Bao Tự.

Mấy năm sau, Tuyên vương đến Thái miếu để tế lễ. Vào đêm khuya, ông nằm mơ thấy một nữ nhân từ hướng Tây chạy vào miếu, tiến đến linh vị tiên vương nhà Chu cười ba tiếng, khóc ba tiếng rồi gom toàn bộ thần chủ trong Thái miếu mang đi. Tuyên vương vô cùng kinh sợ, giật mình tỉnh dậy và triệu Thái Sử Bá Dương Phụ vào. Ông ta tâu rằng mộng thấy nữ nhân thật hợp với điềm báo nữ họa trước kia, còn người đàn bà bị chém đầu năm xưa không liên quan gì cả. Có thể nhà vua quá mừng nên đã quên mất việc chưa tìm thấy tung tích đứa bé kia.

Tuyên vương nghe vậy thì triệu vị quan năm xưa được lệnh tìm đứa bé là Đỗ Bá vào hỏi. Đỗ Bá tâu khi đó không thấy vật gì khác lạ, lại nghe đã bắt được yêu nhân nên rút quân về, sợ kéo dài sẽ làm dân chúng náo động. Tuyên vương nổi giận, liền hạ lệnh chém đầu Đỗ Bá. Lúc đó Tả Nho đã cầu xin nhưng không thành nên đã trăn trối với vợ rồi tự vẫn theo.

Trong 1 ngày cùng mất đi hai vị đại thần nên Tuyên Vương có chút hối hận. Từ đó vua hay nằm mơ thấy 2 người về đòi mạng. Đến 1 đêm, ông không chịu nổi nữa liền rút bảo kiếm trấn quốc ra và mắng lớn: “Ta là Thiên tử, dù có giết trăm ngàn người vẫn là theo mệnh trời…”

Hai oan hồ phẫn nộ trước hôn quân giết người vô tội, lấy cung ra bắn trúng bụng Tuyên vương. Nhà vua đau đớn gào lên rồi giật mình tỉnh dậy. Từ đó Tuyên vương nằm liệt giường, đến năm 784 trước Công nguyên thì băng hà.

Sau đó thái tử Cung Niết nối ngôi, hiệu là Chu U vương. Quả thật cha nào con nấy, U vương ăn chơi tàn bạo còn hơn cả cha mình. Nhà vua không màng đến chính sự nên quốc gia ngày càng suy tàn, ngân khố nhà Chu cũng cạn kiệt. Nhưng hôn quân quan lại cho rằng do các chư hầu tiến cống quá ít khiến quốc khố không đủ chi dụng, nên xuống chiếu tăng cống nạp gấp 3. Nhân dịp trong cung đang thiếu rượu ngon, đòi hỏi nước Bao phải tiến nộp ngay lúa mạch đen thượng hạng. Vua nước Bao là Bao Hướng được triệu vào kinh, nhưng đến lúa kê lúa nước nhân dân còn không đủ ăn thì làm sao có đủ lúa mạch đen để tiến nạp. U vương không nghe lọt tai lặp tức giam Bao Hướng vào đại lao, khi nào có đủ lúa mạch đen thì mới thả người. Nhưng triều đình nước Bao vài tháng trước đã xuất hết châu ngọc và thóc lúa dự trữ để cứu tế nhân dân mất mùa, lấy đâu ra để tiến cống. Cuối cùng đành phải “lấy độc trị độc” bằng cách tiến cống mỹ nữ cho hôn quân háo sắc. Trong số 10 mỹ nhân được tuyển chọn có một nhan sắc nổi trội, đó chính là Bao Tự- đứa bé trước đây bị Khương hậu thả trôi sông. Bao Tự tuy chỉ là dân dã nhưng sắc nước khuynh thành khiến ai nhìn thấy cũng ngẩn ngơ không chớp mắt. Nàng được đặc biệt dặn dò những thủ thuật làm cho U vương say mê không còn nghĩ gì đến triều chính. Vốn bản chất thông minh nên Bao Tự tiếp thu rất nhanh.

Sắc đẹp của Bao Tự quả là có sức mạnh kinh người, hôn quân háo sắc vừa thấy mặt đã bị hớp hồn, chẳng để ý đến các mỹ nữ đi cùng. Sau đó, Bao Hướng được thả về nước.

Sau khi vào cung, Bao Tự đã làm những gì để chiếm lấy sự sủng ái của U vương, khiến người phế bỏ Thân hậu rồi bước lên ngôi vị Hoàng hậu đứng đầu lục cung. Mời mọi người cùng đón xem.

Việc đưa mỹ nhân vào cung mà không qua nghi lẽ sẽ khiến Thân hậu bực tức và quần thần dị nghị. Vì vậy Bao Tự được đưa đến Quỳnh đài ở trong cung cấm, nhưng là nơi tiêu khiển của quân vương không thuộc về lục cung. Ngay đêm hôm đó, quân sĩ được lệnh cấp tốc trang hoàng lại Quỳnh đài cho thật rực rỡ và Bao Tự được sửa soạn để đón tiếp U vương. Đối với U vương, trong cung có đến hàng ngàn mỹ nhân thì việc ân ái có gì là lạ? Thế nhưng đêm hôm ấy vị thiên tử nhà Chu hoàn toàn bị Bao Tự làm cho thần trí mê mệt, mây mưa suốt sáng mà vẫn chưa đủ. Ngày hôm sau truyền lệnh bãi triều khiến bá quan kinh ngạc, không hiểu vì sao.

Thông thường U vương mỗi lần ban ân mưa móc cho các phi tần thì chỉ một đêm là chán ngán, hôm sau truyền chỉ tìm người khác thay thế. Riêng Bao Tự, càng gần gũi bao nhiêu thì U vương càng háo hức bấy nhiêu. Đến nỗi, việc thiết triều từ đó lúc có lúc không, suốt ba tháng trời chưa một lần đến Bắc cung của Thân hậu.

Vốn là người đoan trang, hiểu rõ lễ phép của bậc mẫu nghi thiên hạ, Thân hậu đã nghe các quan bàn tán xôn xao về việc U vương say mê Bao Tự. Trong lòng hậu tự nghĩ: “Đàn ông nào mà chẳng thế. Vừa được nếm mùi mỹ nhân sắc nước hương trời thì việc triều chính tất nhiên phải trì trệ đôi chút. Dù họ Bao kia có là tiên giáng thế cũng chỉ mê hoặc được hoàng thượng vài ba ngày là cùng.”

Chẳng ngờ sự tiên đoán của Thân hậu hoàn toàn sai lạc, gần 3 tháng trời U vương chỉ thiết triều hơn 10 ngày, nghe các quan tâu báo mà như người mất hồn, mau mau hạ lệnh bãi triều rồi lui về Quỳnh đài ngay. Theo lệ thường thì mỗi tháng nhà vua phải đến Bắc cung của hoàng hậu ít nhất một lần, thế mà hơn 3 tháng nay hầu như không hề đặt chân đến. Thân hậu nổi giận dẫn theo mười cung nữ thẳng đến Quỳnh đài. Bọn nội thị canh giữ bên ngoài hết sức bất ngờ, không dám ngăn cản cũng không kịp báo cho U vương biết. Thân hậu xong vào bắt gặp một cảnh tượng: U vương cầm chén rượu ngả nghiêng nói cười, còn Bao Tự chỉ có chiếc áo mỏng che thân, ngồi trong lòng nhà vua uốn éo, lả lơi. Vì trước mặt đế vương không được mạo phạm nên bà chỉ nghiến răng trợn mắt chỉ Bao Tự, quát lớn: “Tiện tì kia, giữa ban ngày ban mặt sao dám làm loạn phép nước, mê hoặc quân vương”. U vương qua phút bất ngờ, vội khoác hoàng bào tử tế rồi che chắn đỡ lời cho Bao Tự, nhận hết tội về mình. Thân hậu dù tức giận nhưng vẫn không dám mạo phạm U vương nên uất ức nhỏ hai dòng lệ rồi bỏ đi. Bao Tự giả vờ sợ hãi trước mặt U vương. U vương hết sức an ủi và truyền đàn ca múa hát cùng nhau vui vẻ như chẳng có chuyện gì xảy ra.

Bao Tự biết mình nắm chắc được lòng yêu mến của U vương nên nhất quyết không thèm đến thỉnh an Thân hậu. Trong khi đó Thân hậu suy nghĩ chín chắn, thấy rằng dù sao trong cung cấm cũng có hàng ngàn phi tần cung nữ, sao có thể vì một đứa con gái mà làm lớn chuyện. Nếu Bao Tự chịu đến thỉnh an, thì mình được coi là người cai quản tam cung lục viện, nếu làm lớn chuyện mà Bao Tự vẫn không đến thì còn thể thống gì nữa. Vì vậy Thân hậu hơi nguôi ngoai, chờ đợi Bao Tự tới thỉnh an, để dùng chức phận làm bẽ mặt đối phương một trận.

Chẳng ngờ gần nửa tháng vẫn không thấy tăm hơi Bao Tự, trong lòng nửa muốn làm cho ra lẽ nửa lại sợ mất lòng U vương. Vì thế Thân hậu cảm thấy không vui biếng ăn chán uống. Một hôm, Thái tử Nghi Cữu đến vấn an, nhìn thấy nét mặt buồn rầu của mẹ liền hỏi ngay. Tâm sự u uất bấy lâu nay có chỗ phát tiết, Thân hậu liền đem chuyện Bao Tự kể lại cho Nghi Cữu nghe. Thái tử một lòng tôn kính mẹ cảm thấy hết sức tức tối. Với thân phận Thái tử, một ngày nào đó sẽ lên ngôi cửu ngũ chí tôn mà để cho mẹ bị một đứa tiện tì làm nhục thì còn ra thể thống gì. Sau khi bái từ mẹ, Nghi Cữu liền dẫn theo vài tên bộ hạ thân tín đi thẳng đến Quỳnh đài tìm phụ hoàng phân biện giúp mẹ mấy lời. Trùng hợp hôm ấy trong triều có nhiều chính sự nên U vương phải bàn soạn với các đại thần chưa thể về Quỳnh đài như mọi ngày. Khi đến cửa đài, nghe văng vẳng tiếng đàn phách rộn rã vọng ra thì tức tối xong vào nhưng bị thị vệ ngăn cản. Bao Tự bên trong nghe thấy tiếng ồn ào, nhưng thay vì sai tì nữ ra hỏi han thì nàng lại tò mò bước ra xem thử. Vì đã được dặn dò sẵn nên nhận ra ngay người trước mặt là Thái tử vương triều, nhưng nàng giả vờ như không biết và hỏi lớn: “Ngươi là ai mà dám tự tiện xông vào đây làm loạn?”. Nghe vậy, bao nhiêu kìm nén bùng nổ, Nghi Cữu xông tới định tát cho Bao Tự vài cái, miệng mắng: “Tiện tì, ngươi quả là có mắt không tròng. Trước mặt ta mà dám mở lời láo xược. Ta phải dạy cho ngươi một bài học”. Các tì nữ của Bao Tự thấy vậy vội chia nhau che chở cho chủ nhân và quỳ xuống tạ tội với Thái tử.

Nghi Cữu vốn là người điềm đạm, thế nhưng nghe bọn nô tì xưng hô là nương nương tức ngang hàng với cả mẹ mình thì không chịu đựng nổi quát lớn. Bao Tự thấy màn kịch đã diễn ra đúng ý mình, nếu nán lại lâu tất khó tránh khỏi hành hung nên giả vờ khóc lóc và lẩn theo các tì nữ lui vào cung. Nghi Cữu dù rất tức giẫn nhưng biết rằng đuổi theo vào chỗ cấm sẽ mang tội rất nặng lại thêm hành động hành hung thì rất khỏ tránh khỏi mất đầu nên hậm hực trở về.

Thái tử không biết đây chính là cơ hội tốt đầu tiên để Bao Tự thi hành kế hoạch làm suy yếu nhà Chu. Nàng đợi U vương về sắp tới, lấy dầu thoa vào mắt cho đỏ mọng lên, xổ tung đầu tóc rồi ấm ức gục xuống bàn khóc lóc. U vương thấy vậy quát hỏi bọn thị tì. Khi nghe kể xong U vương đã nhen nhúm chút tức giận nhưng ngoài mặt vẫn cố khuyên giải nói rằng ngày mai sẽ trách phạt Thái tử. Bao Tự rất khôn ngoan, thấy đã đạt được bước thắng lợi đầu tiên nên không bức bách U vương nữa, tạ từ vào trong thay đổi xiêm y, chải tóc bước ra truyền rượu thịt cùng nhà vua yến tẩm đến tận khuya mới nghỉ.

Để vừa lòng Bao Tự, ngay hôm sau U vương cho quan thị nội viết chiếu trách phạt Thái tử. Nghi Cữu cũng thấy mình quá nóng nải, vốn định vào cung trần tình với phụ hoàng nhưng chưa kịp thì chiếu chỉ đã đến, đành uất hận chịu đựng.

Trải qua vài tháng yên ả, Bao Tự biết mình đã hoài thai với U vương thì càng quyết tâm lợi dụng cơ hội khuynh đảo triều chính nhà Chu. Nhân lúc U vương thiết triều, nàng giả như chán ngán, gọi mấy thị tì sang Ngự uyển ngắm hoa, thấy hoa nào đẹp là hái luôn. Bao Tự cố ý đi đến gần Đông cung, cùng bọn thị tì cười nói náo động cả một khoảng vườn yên tĩnh. Không ngoài dự đoán, Thái tử đang đọc sách ở thư phòng, biết được đó là ả tiện nhân kia, thì dồn nén bấy lâu nay đùng đùng nổi dậy.Thái tử đỏ mặt tía tai chạy ra Ngự uyển mắng chửi: “Ngự uyển là nơi thưởng ngoạn của thiên tử và bậc mẫu nghi thiên hạ, tiện nhân kia chưa có danh phận gì lại dám vào đây làm loạn thì thật không thể tha thứ”. Mắng xong Thái tử truyền thị vệ xông vào bắt trói Bao Tự. Bọn thị vệ không dám trái lời Thái tử nhưng cũng không dám xem thường Bao Tự nên giả vờ hung hăng xông lại nhưng lúng túng để Bao Tự cùng bọn cung nữ chạy thoát. Thấy Bao Tự quần áo tả tơi, vẻ mặt hớt hãi, Nghi Cữu cũng phần nào được thỏa mãn, không sai quân đuổi theo nữa, vui vẻ trở về Đông cung.

Riêng Bao Tự đã sắp đặt sẵn, không những để nguyên quần áo tả tơi mà còn ôm bụng kêu la đau đớn ở trước mặt U vương. U vương thấy vậy hết sức kinh hoảng quay sang hỏi bọn thị tì. Vua tức giận mặc cho các đại thần hết lời khuyên can, thẳng tay xuống chiếu ghép Nghi Cữu vào tội ngang ngược vô lễ, vô cớ hành hung với trưởng thượng, lấy công trả thù riêng. Với những tội danh nặng nề như vậy Nghi Cữu không những bị đình chỉ danh phận Thái tử mà còn bị đày đến nước Thân. Các quan Thái phó, Thiếu phó là thầy dạy cho Thái tử đều bị giáng chức về nhà làm thường dân. Trước sự trừng phạt nghiêm khắc đó, không còn ai dám vô lễ với Bao Tự nữa. U vương còn xuống chiếu chỉ cho Thân hầu, là ngoại tổ của Thái tử phải hết lòng dạy dỗ, khi nào trở thành người xứng đáng mới được về triều phục chức, bằng không sẽ làm người dân nước Thân vĩnh viễn. Nghi Cữu biết phụ vương đã quá nghe lời yêu mị của Bao Tự nên đành gạt nước mắt uất hận ra đi, không có cả thời gian từ biệt mẹ là Thân hậu.

Thân hậu vô cùng uất hận nhưng thấy U vương đang lúc giận dữ, phân trần cầu xin chỉ làm cho sự việc thêm nặng mà thôi, nên đành phải im lặng chờ cơ hội diệt trừ Bao Tự và đưa con trai trở về nắm quyền.

Cấm cung được bình yên tới khi Bao Tự sinh ra được con trai, đặt tên là Bá Phục. Vì để con lên làm Thái tử, nàng kết cấu cùng Quắc Công và Doãn Cầu để nắm thóp sơ hở của Thân hậu và Thái tử, rồi thực hiện âm mưu phế truất Thái tử.

Khi ấy Thân hậu không hề ngờ tới, chỉ mong thấy mặt con nên nhờ mẹ của cô cung nữ thân cận gửi thư cho Thái tử, khuyên con dâng biểu tạ tội. Tuy nhiên việc làm của hoàng hậu bị đám tai mắt của Quắc Công và Doãn Cầu phát hiện rồi bẩm báo lại. Cùng với Bao Tự, họ đã tương kế tụ kế xé bức thư ra thành nhiều mảnh và đốt một nửa, chỉ để lại những mảnh giấy với câu từ mập mờ rồi đưa nó cho U vương xem. Nhà vua rất tức giận sai mang chứng cứ cho bộ Hình theo phép mà tra xét. Nhưng tối đó Bao Tự vẫn chưa yên tâm, nên nhân lúc cùng U vương nồng nàn chăn gối khiến ông chấp thuận, sáng mai họp triều bàn việc phế lập Thái tử. Đồng thời, lén cho thân tín báo với 2 tên gian thần đến phủ các đại thần khác dụ dỗ hoặc ép buộc để có sự ủng hộ.

Sáng hôm sau, khi U vương kể lại sự việc Thân hậu viết mật thư cho Thái tử, tỏ ý muốn phế bỏ Nghi Cữu lập Bá Phục lên ngôi, ban thưởng danh phận hoàng hậu cho Bao Tự, thì chẳng ai phản đối hay ý kiến. Thấy vậy Quắc Công và Doãn Cầu liền lợi dụng chuyện nữ họa trước đây để phế bỏ hoàng hậu nhưng vẫn giữ lại ngôi vị thái tử của Nghi Cửu. Bởi vì Bao Tự biết rằng Nghi Cửu còn non trẻ không có quyền lực trong tay, nếu Thân hậu mất ngôi thì cái cái danh Thái tử chỉ là hư danh mà thôi, có thể từ từ tính đến việc phế truất mà không làm nước nhà náo loạn. U vương nghe thế thì đồng ý ngay. Từ đó Bao Tự chính thức trở thành Hoàng hậu của U vương, đứng đầu tam cung lục viện, tiếp tục thực hiện kế hoạch làm suy thoái nhà Chu.

Sau khi Thân hậu bị đưa vào lãnh cung hối lỗi và thái tử Nghi Cữu bị phế xuống làm dân thường suốt đời ở nước Thân thì Bá Phục hiển nhiên lên ngôi thái tử. Ngôi vị hoàng hậu của Bao Tự cũng ngày càng vững chắc. Nhưng từ khi vào cung hơn 7 năm trời, Bao Tự chỉ có một lần nở nụ cười: đó là ngày lễ đăng quang của Thái tử Bá Phục. U vương lần đầu tiên được thưởng thức nụ cười ấy, ngày đêm không quên được. Dù đã tìm đủ mọi cách chiều chuộng nhưng vẫn không thể khiến nàng nở nụ cười thứ hai. Không còn cách nào khác, U vương ra chiếu chỉ: Bất cứ người nào trong thiên hạ làm cho nàng cười thì dù có tốn ngàn vàng cũng sẽ không tiếc rẻ. Vốn tính tham lam nên Doãn Cầu đã nghĩ ra một trò vui mới lạ vội tâu với U vương. Từ đời tiên vương đã cho dựng một Phong Hỏa đài ở Ly Sơn để đề phòng Khuyển Nhung xâm phạm. Nơi đó cách Cảo Kinh không xa. Nếu vua đưa Bao hoàng hậu đến Phong Hỏa đài uống rượu cho đốt lửa gọi các chư hầu đến cứu giá. Mặt mũi quân tướng khi biết mình bị lừa sẽ rất buồn cười rất có thể khiến Bao hoàng hậu nở nụ cười. U vương vì ham muốn chiêm ngưỡng nụ cười của nàng nên không còn nghĩ gì đến cái hại sâu xa của việc lừa dối các chư hầu làm trò mua vui, nên lập tức thi hành.

Ngày hôm sau, Bao Tự được mời đến Ly Sơn dự tiệc, đẫn theo hàng trăm cung nữ múa hát dưới ánh đèn rực rỡ như đêm hội hoa đăng. Dù hết sức tán thưởng nhưng nàng vẫn không mở một nụ cười. Khi màn đêm hạ xuống, U vương truyền lệnh cho quân sĩ nổi lửa đánh trống rầm trời. Ánh lửa của mấy chục đài chiếu sáng cả một vùng biên giới, khói đen cuồn cuộn bốc lên cao. Dù được quan tư đồ khuyên can rằng, Phong Hỏa đài là nơi trọng yếu, nếu không có quân địch xâm phạm mà tự tiện đốt lửa đánh trống thì chỉ làm các chư hầu mệt nhọc kéo quân đi rồi lại kéo quân về. Nếu mai này có quân địch thật thì Phong Hỏa đài sẽ mất hiệu nghiệm, nguy hiểm tới quốc gia. U vương tức giận quát mắng cho rằng ngày trước tiên đế vốn dùng nhân nghĩa không phát triển binh lực nên cần đến các chư hầu cứu giá. Nhưng nay quân tướng nhà Chu hùng hậu, dù Khuyển Nhung có xâm phạm cũng chẳng cần đến Phong Hỏa đài. U vương không quan tâm đến oai đức của bậc thiên tử, không lo sợ các chư hầu sẽ ngầm giúp Khuyển Nhung, vẫn tiến hành đốt lửa nổi trống để mua vui, đổi lấy nụ cười của mĩ nhân.

Quả nhiên, các chư hầu thấy một loạt Phong Hỏa đài cháy sáng rực trời, thì vội vã điểm quân tướng cấp tốc vượt đường dài đến Phong Hỏa đài chờ lệnh. Chưa đến nửa đêm, dưới đài đã có hàng vạn quân mã, giáp mũ sáng ngời. Tất cả ngước lên đài cao, ngơ ngác nhìn đèn nến, mỹ nữ giai nhân áo quần lộng lẫy múa hát véo von như trong tiên cảnh. Còn U vương cầm chén lớn, mặt rồng hớn hở, ôm ấp tấm thân yêu kiều của Bao Tự vào lòng. Quân binh chẳng hiểu mình đang mơ hay đang tỉnh. U vương sai nội thị ra trước đài truyền lệnh: “Thiên tử ban lệnh cho các ngươi trở về. Chỉ vì Bao hoàng hậu lỡ tay châm lửa mà thôi. Hiện nay thiên hạ thái bình, làm gì có giặc xâm phạm. Tất cả khó nhọc đường xa đều được thiên tử ban thưởng; hãy bái tạ rồi lui khỏi cấm địa đừng làm mất cuộc vui của bậc chí tôn”.

Quân tướng chư hầu ai cũng hiểu ngay mình đã bị lừa, làm con rối cho U vương và Bao tự vui chơi chứ làm sao có liệc lỡ tay châm lửa ở nơi trọng yếu bậc nhất này. Ai cũng căm tức nhục nhã hạ cờ dẹp trống, thất thểu kéo nhau về nước. Cảnh tượng trái ngược hoàn toàn giữa lúc đến và lúc đi, người người ngơ ngác khiến Bao Tự bật cười khúc khích. U vương ngẩn ngơ nhìn ngắm nụ cười ấy, lòng không khỏi bồi hồi xúc động. Ngay hôm sau, xuất ngân khố ban thưởng cho Doãn Cầu một ngàn lượng vàng mà không hề biết tai họa đang đến với mình.

Sau nhiều năm toan tính,Thân hầu tận dụng thời cơ này liên kết với Khuyển Nhung bí mật điều động hơn 3 vạn quân binh đến sát biên giới, chỉ chờ hiệu lệnh là tấn công. Thân hầu phó ước với Khuyển Nhung là sẽ tôn Nghi Cữu lên ngôi thiên tử, giải cứu cho Thân hậu, còn lại Khuyển Nhung có toàn quyền vơ vét bao nhiêu của cải tùy ý trước khi rút quân về. Vì 2 bên đều có mục đích riêng tư nên khí thế rất mạnh mẽ, chỉ trong một ngày đã vượt qua biên giới thẳng đường đến Cảo Kinh. Bọn gian thần của U vương hoàn toàn bất ngờ xanh mặt kéo về triều tâu báo, xin vua nổi lửa Phong hỏa đài để các chư hầu mang quân đến chi viện. U vương không hề lo lắng, bình thản sai người ra Phong Hỏa đài nổi lửa đánh trống. Hơn hai chục Phong Hỏa đài đồng loạt bốc lửa lên tận mây xanh, tiếng trống vang động cả kinh thành. Thế nhưng quân giặc tiến vào như vũ bão, chẳng mấy chốc đã bao vây Cảo Kinh vòng trong vòng ngoài mà quân tướng chư hầu không hề xuất hiện. Lúc đó U vương mới bắt đầu lo sợ, truyền lện tập họp binh tướng mở cửa thành giao chiến.

Chẳng ngờ quân sĩ đã từ lâu không được luyện tập kiếm cung, cùng với đói khát nên mất hết tinh thần chiến đấu, chỉ giao tranh một trận đã đại bại. Quân nước Thân và Khuyển Nhung thừa thế chiếm cứ cửa thành, ồ ạt tiến vào. U vương cả sợ, không còn lòng dạ nào chống cự nữa sai hộ giá cùng Bao Tự và Bá Phục chạy ra Ly Sơn. Bây giờ chỉ còn mỗi cách huy động quân sĩ đốt các hỏa đài lên, nếu chư hầu đến kịp thì mới hy vọng đánh đuổi được bọn Khuyển Nhung. Tiếc thay, các chư hầu tuy thấy Ly Sơn hầu như chìm trong khói lửa nhưng vẫn tưởng U vương lại bày trò mua vui nên cùng nhau án binh bất động.

Rất nhanh quân Khuyển Nhung đã mau chóng đuổi kịp đến Ly Sơn, vây chặt dưới chân đài. Doãn Cầu không còn hồn vía nào nữa bỏ mặc U vương, cải trang thành tên quân lén trốn ra ngã sau, nhưng cuối cùng không giữ được tính mạng, chết nhục nhã trong đám loạn quân đang tháo chạy. Quân Khuyển Nhung gặp ai chém nấy, không phân biệt quan tướng hay thường dân. Bọn chúng quá say máu, dù có thể bắt sống U vương dễ dàng nhưng vẫn tàn bạo chém chết cả nhà vua và Thái tử Bá Phục. Riêng Bao Tự bị chúa Khuyển Nhung mang về làm của riêng. Đồng thời tìm kiếm nơi cất giấu vàng ngọc trong cung điện nhà Chu. Thân hầu vì mải lo việc giải cứu Thân hậu nên khi đưa quân đến Ly Sơn thì U vương đã chết, đành ngậm ngùi sai người làm lễ an táng chu đáo.

Theo giao ước, Khuyển Nhung lấy hết châu báu vàng ngọc, chở về nước hàng chục xe mà vẫn chưa ngớt. Dù đã giành chiến thắng nhưng vẫn chém giết người dân vô tội, cướp bóc chẳng nương tay khiến ai ai cũng oán hận, mắng nhiếc Thân hầu không tiếc lời. Thân hầu nhiều lần đến quân doanh của Khuyển Nhung hỏi tin tức bao giờ rút quân về nhưng bọn chúng chỉ ỡm ờ, thậm chí có tên còn nói thẳng là muốn chiếm cả Trung Nguyên. Thân hầu vô cùng tức giận, nên một lần nữa bí mật tính toán kế hoạch diệt trừ. Ông đã cho người lén sang các nước lận cận là Tấn, Tần, Vệ, Trịnh cầu viện, hẹn ngày mở cửa thành tiếp ứng. Một phần vì Khuyển Nhung đang đắc chí không đề phòng, một phần vì có Thân hầu làm nội ứng nên mấy tháng sau, liên quân bốn nước đã chiếm được Cảo Kinh. Chúa Khuyển Nhung không còn lòng dạ nào nữa, kéo tàn quân chạy trốn như đàn chuột gặp lửa hồng, đến nỗi quên cả mỹ nhân. Bao Tự vừa mất con vừa tủi nhục, tự thắt cổ chết chứ không còn mặt mũi nào trở về nước Bao được nữa.

Về phần các chư hầu đánh tan Khuyển Nhung, cùng Thân hầu tôn phò Nghi Cữu lên ngôi thiên tử, hiệu là Chu Bình vương, đó là năm 770 trước Công nguyên. Bình vương lên ngôi xong ban thưởng cho bốn nước trọng hầu, truyền truy phong cho Thân hầu nhưng ông xin nhận tội đã để Khuyển Nhung tàn phá Cảo Kinh nên từ chối. Cảo Kinh mấy đời nay là đất văn vật, nhà cửa trù phú, trải qua thời gian dưới sự cướp bóc thẳng tay của Khuyển Nhung đã điêu tàn không sao hồi phục lại được. Chu Bình vương nhìn thấy bao nỗi tang thương, nhìn lại cảnh cũ càng thêm đau lòng nên cùng quần thần bàn nghị, quyết định dời đô về Lạc Dương, bỏ hoang phần đất phía Tây. Từ đó Tây Chu diệt vong, mở đầu một chương lịch sử mới với nhà Đông Chu.


 


Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

NHÓM MÁU BOMBAY QUÝ HIẾM NHẤT THẾ GIỚI, CHỈ CHIẾM 0.0004% DÂN SỐ

AI ĐÃ XÂY KIM TỬ THÁP

TOP 10: ĐỘNG VẬT NGUY HIỂM NHẤT THẾ GIỚI ĐỐI VỚI CON NGƯỜI